Quang Hưng - Những thành tựu nổi bật

1. Về nông nghiệp

Với diện tích đất nông nghiệp 498,9 ha trong đó: đất trồng cây hàng năm là 434,8ha. Với cơ cấu kinh tế là: nông nghiệp 45%, công nghiệp xây dựng 25%, thương mại dịch vụ 30%, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm 12,8%, giá trị thu nhập 1 ha = 65 triệu đồng, bình quân thu nhập đầu người đạt 12 triệu, năng suất lúa bình quân 12,5 tấn/ha.
2. Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Xã có 5 doanh nghiệp tư nhân và 1 HTX vận tải, 1 doanh nghiệp tư nhân xây dựng có số vốn lưu động 42 tỷ đồng, 1 doanh nghiệp sản xuất và chế biến gỗ có số vốn 40 tỷ đồng, 1 doanh nghiệp tư nhân xay xát và xuất khẩu gạo có số vốn 21 tỷ đồng, 1 doanh nghiệp cơ khí Đại Dương và doanh nghiệp may công nghiệp Hoa Sen, 1 HTX vận tải, xà lan 2 chiếc trọng tải 200 Tấn, 4 ô tô tải IPA, 2 công nông đầu ngang có số vốn hơn 12 tỷ đồng.
Quỹ tín dụng nhân dân có số dư trên 20 tỷ đồng, xã có 1 làng nghề được UBND tỉnh công nhận các nghề như nung vôi, đóng gạch ba vanh, toàn xã có 58 lò vôi, thu hút giải quyết hơn 600 lao động có việc làm, thu nhập hàng tháng từ 1,5 đến 2 triệu đồng/ người. Doanh thu hàng năm hơn 4 tỷ đồng, một số loại hình dịch vụ được đầu tư như xây dựng, mộc, lề, vận tải hành khách, hàng hoá, ở các khâu dịch vụ khác đã phát triển năng động mang lại hiệu quả kinh tế cao, đem lại thu nhập cho người lao động, giải quyết công ăn việc làm cho thanh niên và người lao động tại chỗ.

3. Về chăn nuôi thuỷ sản

- Các mô hình chăn nuôi gia súc gia cầm được chú trọng phát triển tập trung theo hướng công nghiệp hoá, nạc hoá đàn lợn, sinh hoá đàn bò, xã Có 24 trang trại đạt tiêu chuẩn, có trên 30 hộ nuôi gà công nghiệp, ngan, vịt siêu thịt và sản xuất gà giống cung cấp ra thị trường trong huyện và lân cận hàng chục vạn con, cho thu nhận cao.
- Về thuỷ sản: với 20ha mặt nước đã được khoán tới hộ nông dân nuôi cá chim trắng, rắn độc, ba ba, cá giống, cá thịt, sản lượng hàng năm đạt trên 55 tấn và hơn 50 triệu cá giống các loại cho thu nhập trên 1,5 tỷ đồng. Có 4 hộ nuôi 2 ha cá rô phi xuất khẩu và tôm càng xanh đạt hiệu quả kinh tế cao, đã được Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn hội thảo mô hình thăm quan tại xã để nhân rộng trong tỉnh.

4. Về thương mại dịch vụ

Với cơ cấu 30% thực trạng ngành thương mại dịch vụ đã có chiều hướng phát triển mạnh, với vị trí tiếp giáp giữa 2 tỉnh Hưng Yên và Hải Dương, trên quốc lộ giao thông 38B quan trọng và 1 chợ tràng được nâng cấp tu sửa, thường xuyên họp 30/30 ngày trong tháng, đã thu hút hàng hoá giao lưu, trao đổi và tiêu thụ sản phẩm, trong vùng và là nơi tập kết, trung chuyển hàng hoá chế biến để tiêu thụ trên thị trường. Ngoài ra còn có hơn 100 hộ buôn bán vật liệu xây dựng, tre, nứa, gỗ, phân bón thuốc trừ sâu, hàng hoá các loại, ăn uống, sửa chữa xe máy, ô tô, xe lu, hàn xì…. Đã làm phong phú thêm thị trường dịch vụ của xã ngày càng phát triển.

5. Về văn hoá xã hội

Sự nghiệp giáo dục, đào tạo có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn được quan tâm, cơ sở vật chất nhà trường được đầu tư xây dựng, chất lượng dạy và học được nâng lên. Sô học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp huyện từ năm 2005 đến năm 2009 có 150 học sinh, số cháu 6 tuổi được huy động vào lớp 1 đạt 100%, học sinh tốt nghiệp tiểu học vào THCS 100%, số học sinh THCS tốt nghiệp thi đạt vào THPT 80%. Tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học hàng năm tiếp tục tăng, từ năm 2005 đến năm 2010 có 170 em.
* Y tế, dân số, gia đình trẻ em
Công tác y tế được quan tâm, chăm lo, trạm y tế được đầu tư nâng cấp cả về cơ sở vật chất và trang thiết bị, làm tốt công tác chăm sóc sinh hoạt ban đầu cho nhân dân, thực hiện tốt chương trình y tế quốc gia. 100% trẻ em được tiêm đủ 6 loại vác xin, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên là 0,7%, 100% trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm giúp đỡ.
* Công tác VHTT-TDTT và chính sách xã hội
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá được triển khai thực hiện có hiệu quả, toàn xã có 1.830 gia đình văn hoá đạt 95%; 4/4 làng giữ vững danh hiệu làng văn hoá, 2/4 làng văn hoá được công nhận có thành tích tiêu biểu sau 3 năm, các hủ tục lạc hậu trong việc cưới việc tang và lễ hội giảm. Phong trào văn hoá, văn nghệ, TDTT phát triển, các công trình văn hoá như nghĩa trang liệt sĩ, sân vận động, di tích đình chùa, cổng làng được đầu tư xây dựng, nâng cấp trị giá hàng tỉ đồng từ nguồn ngân Sách nhà nước và đóng góp của nhân dân, ủng hộ của con em quê hương. Mô hình xây dựng nghĩa trang nhân dân thôn Thọ Lão được tỉnh, huyện đánh giá cao và khuyến khích các thôn vận dụng thực hiện.
- Công tác thông tin tuyên truyền có nhiều đổi mới, tiến bộ, đài truyền thanh xã kịp thời tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của địa phương.
- Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, từ thiện, nhân đạo được toàn dân trong xã đồng tình hưởng ứng, các loại quỹ đền ơn đáp nghĩa; Bảo trợ trẻ em, nạn nhân chất độc da cam và Quỹ vì người nghèo hàng năm phát động, xã đều hoàn thành chỉ tiêu trên giao. Thực hiện tốt các chế độ chính sách đối với các đối tượng theo quy định.

6. Việc tổ chức và quản lý lễ hội

- Xã có 1 di tích lịch sử văn hoá là đình làng Quang Xá được UBND tỉnh công nhận năm 2009.
- Tại địa phương có lễ hội tháng 3, được tổ chức từ 09/3 đến 17/3 âm lịch tại các đình làng ở 4 thôn, mỗi thôn tổ chức lễ hội từ 3 – 5 ngày đáp ứng được nhu cầu tâm linh thu hút đông đảo nhân dân trong thôn đến lễ hội và khách thập phương tham gia, việc bảo quản cơ sở vật chất, các đồ thờ tự và an ninh trật tự trong các ngày diễn ra lễ hội đảm bảo tốt.
- Việc quản lý lễ hội tín ngưỡng dân gian truyền thống ở các đình làng thờ thành hoàng làng, lễ hội được UBND xã trực tiếp chỉ đạo giao nhiệm vụ cho ban công tác mặt trận, Hội người cao tuổi và lãnh đạo thôn, Ban nội tự tổ chức, các đoàn thể khác phối kết hợp với quy mô cách thức tổ chức theo địa bàn thôn, 2 năm 1 lần tổ chức rước kiệu an toàn, tiết kiệm.
- Phần lễ được tiến hành, tổ chức dâng hương, nghi lễ truyền thống có đội tế nam, đội tế nữ, con dân cháu làng về dâng hương tưởng nhớ tới tổ tiên một cách long trọng.
- Phần hội bảo tồn những trò chơi dân  gian mang đậm bản sắc văn hoá của dân tộc và của địa phương như: bịt mắt, đập niêu, nấu cơm niêu, lội ao bắt vịt… tổ chức giao lưu bóng chuyền, bóng đá thiếu niên, cờ tướng, bóng bàn đều do đoàn thanh niên chủ trì tổ chức. Ngoài ra các trò dân gian TDTT, phần hội còn có hoạt động văn hoá văn nghệ, giao lưu giữa câu lạc bộ Hội người cao tuổi và câu lạc bộ phụ nữ với các loại hình như biểu diễn trích đoạn chèo cổ, hát trống quân, hát cò lả, múa với nội dung ca ngợi quê hương đất nước. Lễ hội nghiêm cấm các hành vi bói toán, lên đồng, sóc thẻ mang tính mê tín dị đoan và các trò chơi vui chơi có thưởng. Công tác an ninh trật tự trong thời gian lễ hội đảm bảo tốt.
Về tổ chức các ngày kỷ niệm của đất nước, của địa phương và các đoàn thể hoặc đón nhận danh hiệu chỉ tổ chức kỷ niệm vào năm chẵn và theo đúng quy định và hướng dẫn của cấp trên.

7. Công tác tổ chức xây dựng Đảng

Đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức Đảng TSVM, chỉ đạo chặt chẽ các tổ chức chi bộ Đảng tiến hành phân loại kiểm điểm Đảng viên và tổ chức chi bộ Đảng. Năm 2005 có 8/10 chi bộ đạt TSVM, đạt tỷ lệ 80%, năm 2009 là 11/12 chi bộ TSVM đạt tỷ lệ 92%. Hàng năm Đảng bộ đều đạt TSVM, có thành tích tiêu biểu được Tỉnh uỷ tặng cờ. Phong trào xây dựng chi, Đảng bộ TSVM được Đảng bộ và các chi bộ coi trọng lãnh đạo thực hiện. Đảng uỷ lãnh đạo các chi bộ duy trì và thực hiện nghiêm túc quy định về chức năng, nhiệm vụ quy chế và Điều lệ Đảng, chỉ đạo các chi bộ tổ chức thành công Đại hội chi bộ nhiệm kỳ 2008-2010, và tổ chức thành công Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XXVII nhiệm kỳ 2010-2015.